Trận chiến Trận_Gazala

Chiến dịch tấn công của Rommel.

Đòn bọc sườn của Rommel

Ngày 26 tháng 5, Chiến dịch Venezia mở màn khi pháo của Đoàn Crüwell đồng loạt trút đạn xuống các cứ điểm Đồng Minh. Đến 14h, bộ binh Ý thuộc các Quân đoàn X và XXI xông lên đánh trực diện vào trung tâm phòng tuyến Gazala. Một số đơn vị thuộc Quân đoàn Phi châu và Quân đoàn Cơ động XX đã được phối thuộc vào đội hình xung kích này, đặng làm cho quân Đồng Minh tưởng toàn bộ lực lượng khối Trục đang tấn công vỗ mặt họ. Không chỉ vậy, khi màn đêm xuống, chủ lực Quân đoàn Phi châu hành tiến về hướng tấn công của 2 quân đoàn Ý và trở lại điểm xuất phát sau khi thu hút được sự chú ý của không quân trinh sát Anh. Sau đó, lúc 22h30, Rommel kéo 2 sư đoàn thiết giáp của Quân đoàn Phi châu, Sư đoàn Khinh chiến Phi châu số 90 (Đức) cùng Quân đoàn Mô tô XX (Ý) tiến vòng qua sườn phía nam của phòng tuyến Gazala. Họ tận dụng các bãi mìn của quân Đồng Minh để bảo vệ mạn sườn và hậu quân của mình.[18][23][29]

Pháo tự hành chống tăng của Quân đoàn châu Phi.

Đến rạng sáng ngày 27 tháng 5, đại quân của Rommel đã hiện diện sau lưng tuyến Gazala. Khi đoàn quân Đức-Ý quành lên mạn bắc, Sư đoàn Ariete Quân đoàn Mô tô XX (Ý) bắt gặp Lữ đoàn Mô tô Ấn Độ số 3 Sư đoàn Thiết giáp số 7 (Anh) trên một địa bàn cách Bir Hakeim 6 km về hướng đông nam. Sau 1 tiếng đồng hồ chiến đấu, quân Ý nghiền nát các đơn vị Anh-Ấn và loại 1540 quân đối phương ra khỏi vòng chiến (gồm 440 bị sát thương, 1100 bị bắt sống - trong đó có Đô đốc Walter Cowan), đồng thời thu giữ và phá hủy hầu hết trang thiết bị của họ. Đổi lại, tổn thất của quân Ý chỉ lên đến 23 xe tăng (trong đó nhiều chiếc được sửa chữa lại ngay trên chiến địa), 30 lính tử trận cùng 50 bị thương.[18][23][30] Báo cáo của Lữ trưởng Lữ Mô tô Ấn Độ số 3 đề cập đến "một sư đoàn thiết xa Đức vấy máu", nhưng trên thực tế, Sư đoàn Thiết giáp số 21 (Đức) khi đó đang hành tiến ở hướng nam chiến địa và không tham gia tiêu diệt Lữ Mô tô Ấn Độ số 3.[31][32][33]

Cùng lúc ấy, giao chiến cũng bùng phát ở phía đông mặt trận – nơi Sư đoàn Thiết giáp số 15 (Đức) bất ngờ tấn công Lữ đoàn Thiết giáp số 4 Sư đoàn Thiết giáp số 7 (Anh) sau khi lữ này được điều đến hỗ trợ các Lữ Mô tô Ấn Độ số 3 và 7. Trong một cuộc chiến đấu nảy lửa, tầm bắn và sức công phá của pháo 75 ly trên các xe tăng mới M3 (Grant) đã gây cho quân Đức choáng ngợp. Bất chấp khó khăn, Rommel cùng Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn Phi châu Walther Nehring và Thiếu tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn Thiết giáp số 21 Gustav von Vaerst xông vào những điểm nóng hổi trên trận tuyến đặng động viên tinh thần của cán-binh. Mặc dù lực lượng thiết giáp Đức chịu nhiều thương vong, họ gần như diệt gọn 2 trung đoàn và đánh thiệt nặng các đơn vị khác của Anh. Lữ đoàn Thiết giáp số 4 đành tháo chạy về El Adem và nghỉ đêm gần căn cứ tiếp tế Belhamed hướng đông El Adem.[34][35] Đến cuối buổi sáng, các đơn vị thiết giáp khối Trục đã thọc được hơn 40 km lên mạn bắc, nhưng sau đó bị Sư đoàn Thiết giáp số 1 (Anh) buộc phải dừng bước trong những trận đụng độ khốc liệt vào giữa ngày.[34]

Bên cánh phải của quân đội Đức-Ý, Sư đoàn Khinh chiến "Phi châu" số 90 hành tiến về El Adem và buộc Lữ đoàn Mô tô số 7 hải rút sang Bir el Gubi sau một trận đọ sức ở Retma (phía tây Bir el Gubi).[36] Tiếp theo đó, các thiết vận xa của Sư Khinh chiến số 90 đã đánh chiếm sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn Thiết giáp số 7 gần Bir Beuid và bắt sống một số sĩ quan Anh - trong đó có tư lệnh sư đoàn Frank Messervy, người đã giả vờ làm một "hạ sĩ quan phục dịch" và trốn thoát về Tổng hành dinh Sư đoàn.[27] Dù vậy, sự thất thủ của cơ quan chỉ huy tiền phương đã khiến Sư Thiết giáp số 7 chìm vào hỗn loạn trong hai ngày tới.[34] Vào giữa buổi trưa, Sư đoàn Khinh chiến số 90 đã đến khu vực El Adem theo kế hoạch và chiếm giữ nhiều căn cứ tiếp tế. Nhưng sang hôm sau, Lữ Thiết giáp số 4 (Anh) kéo về El Adem và đánh bật Sư đoàn Khinh chiến số 90 xuống mạn tây-nam.[37]

Cuộc chạm trán giữa xe tăng Đức-Ý với Liên hiệp Anh kéo dài suốt 3 ngày liến, làm quân Đức thiệt hại đến 1/3 lực lượng thiết giáp của mình. Lực lượng thiết giáp Đức bị phân tán trên một địa bàn lớn và bị kẹt phải các bãi mìn Anh ở sau lưng.[8] Trong khi ấy, quân Pháp ở Bir Hacheim vẫn kháng cự bền bỉ. Các đoàn tiếp viện quân Trục từ hướng tây không thể sang đông giúp Rommel. Ông đành rút Quân đoàn Phi châu vào một hệ thống phòng thủ được gọi là "Chiếc vạc". Ông cho triển khai trận địa pháo chống tăng dày đặc và lợi dụng các vành đai mìn của Đồng Minh trên tiền tuyến ban đầu hòng ngăn chặn địch phản kích từ hướng tây. Quân thiết giáp Đồng Minh liên tục tấn công "Chiếc vạc" từ mạn bắc và đông, nhưng bị đẩy lùi trước hỏa lực mạnh mẽ và chính xác của địch. Sư đoàn Kỵ binh Thiết giáp Ariete (Ý), làm nhiệm vụ hậu vệ cho quân Đức, đã bẻ gãy hàng loạt đợt tấn kích của các lữ đoàn thiết giáp Anh trong ngày 29 tháng 5 và thượng tuần tháng 6. Bên cạnh đó, tình hình tiếp tế của Rommel càng lúc càng trở nên tồi tệ.[38][39]

Cuộc chiến đấu ở Bir Hakeim

"Hộp" Bir Hakeim được trấn giữ bởi 3.600 quân thuộc Lữ đoàn Pháp Tự do số 1 do tướng Marie-Pierre Koenig chỉ huy. Ngày 27 tháng 5, trận Bir Hakeim mở màn khi Sư đoàn Ariete tấn công "hộp" này nhưng bị đại bác 75 ly và mìn của Pháp đẩy lui với thương vong ghê gớm.[38][40][41] Đêm ngày 1 - 2 tháng 5, các sư đoàn Khinh chiến số 90 và Trieste kéo xuống phía nam đặng tiếp tục đánh phá Bir Hakeim và trận chiến tiếp diễn trong 10 ngày tới.[42]

Các đợt tiến công của quân ta liên tục bị khựng lại trước hệ thống công sự tuyệt vời của Pháp. Trong ngày 10 ngày đầu của cuộc tấn công vào quân Pháp, tụi Anh vẫn bình thản đến mức đáng kinh ngạc. Một mình Sư đoàn "Ariete" đã bị chúng tấn công vào ngày 2 tháng 6, nhưng họ đã chống cự ngoan cường. Sau một cuộc phản kích của Sư đoàn Thiết giáp số 7, tình hình lại trở nên yên ắng.

– Thiếu tướng Đức Alfred Toppe[42]

Được tăng viện thêm một chiến đoàn, quân Trục lại tấn kích Bir Hakeim ngày 9 tháng 9 và tràn ngập tuyến phòng thủ của Pháp trong ngày hôm sau.[43] Ritchie hạ lệnh cho tàn binh Pháp tháo lui trong sự che chắn của màn đêm.[44] Dưới hỏa lực dồn dập trong suốt đêm, nhiều lính Pháp đã mở được cửa thoát khỏi phòng tuyến rồi rút 8 km sang hướng tây và được các xe vận tải của Lữ đoàn Mô tô số 7 đưa đón.[45] Mặc dù Sư đoàn Khinh chiến số 9 bắt được khoảng 500 quân Pháp – bao gồm cả nhiều thương binh – khi tiếp quản Bir Hakeim vào ngày 11 tháng 6,[46] chừng 2.700 binh sĩ Pháp (trong đó có 200 thương binh) đã rút chạy an toàn khỏi đây.[45]

Cái "vạc" chứa Tập đoàn Thiết giáp Phi châu

Cuối tháng 5 năm 1942, Tập đoàn Thiết giáp Phi châu lâm vào nguy khốn do bị kẹt giữa các bãi mìn với quân Anh và bị cô lập về mặt tiếp tế. Đầu ngày 29 tháng 5, xe tiếp vận của hai sư đoàn "Trieste" và "Ariete" (Ý) luồn qua những cánh "rừng mìn" phía bắc Bir Hakeim và đem lương thực cùng quân nhu đến cho lực lượng tiền phương của Binh đoàn Phi châu.[47] Cùng thời gian đó, binh đoàn bắt tay vào mở đường qua các bãi mìn ở hướng đông đặng nối lại liên lạc với các đơn vị bạn trong Tập đoàn Thiết giáp Phi châu. Bên ngoài "vạc", Binh đoàn X (Ý) cũng được lệnh mở hai con đường tiếp tế từ phía tây. Đến ngày 30 tháng 5, Rommel nhận ra rằng "hộp" Sidi Mufta của Lữ đoàn số 150 (Anh) - được yểm trợ bởi 30 xe tăng thuộc Lữ đoàn Tăng Lục quân số 1 - đang khóa chặt con đường tây tiến của ông. Ngay lập tức, "Cáo Sa mạc" dốc quân từ 2 hướng bắc, hướng đông sang quây đánh Lữ 150 và chiếm gọn hộp Sidi Mufta vào hôm sau.[39][48]

Buổi chiều [ngày 30 tháng 5], tôi đích thân đi thăm dò khả năng đánh Got el Ualeb [tức hộp Sidi Muftah], và lệnh cho các đơn vị Quân đoàn Phi châu, Sư đoàn Khinh chiến số 90 cùng Sư đoàn Trieste (Ý) xung kích vào các vị trí quân Anh trong sáng hôm sau. Trận tấn công mở màn lúc sáng ngày 31 tháng 5. Đoàn quân Đức-Ý phải lấn lên từng thước đất để đương đầu với sự kháng cự dẻo dai nhất có thể tưởng tượng của tụi Anh.[...] Dù vậy, quân ta đã thọc khá sâu vào phòng tuyến Anh khi đêm đến. Ngày hôm sau là lúc quân phòng thủ phải ăn đòn kết liễu. Sau những đợt không kích ồ ạt bằng Stuka, bộ binh lại xung phong vào các cứ điểm quân Anh.[...]. Ta bóc từng lớp vỏ trên tuyến phòng thủ kiên cố của Anh và đến đầu chiều thì chiếm hết trận địa. Các ổ đề kháng cuối cùng của bọn Anh bị đập tan. Quân ta bắt được tổng cộng 3.000 tù binh, phá hủy hoặc thu giữ 101 xe tăng và thiết vận xa, cùng với 124 khẩu pháo đủ loại.

– Rommel[48]

Xe tăng M13/40 đang tiến qua sa mạc.

Cả tin theo các báo cáo phóng đại về tổn thất xe tăng của Đức, Auchinleck hối thúc Ritchie chớp lấy thời cơ, tổ chức phản kích dọc theo ven biển đặng mở đột phá khẩu vào Timimi và Mechili. Thay vì đó, do bận tâm hơn với sự an nguy của Tobruk, Ritchie tập trung tăng cường lực lượng phòng bị hộp El Adem và thiết lập các cụm chốt mới đối diện với các lỗ hổng trong hệ thống mìn bẫy.[49] Phải đến tờ mờ sáng hôm 5 tháng 6, Ritchie mới mở Cuộc hành quân Aberdeen đánh vào Quân đoàn Phi châu, nhưng bị thảm bại trước hỏa lực chính xác từ xe tăng và pháo phòng tăng của Đức. Sau khi xuất hành lúc 2h50, các Sư đoàn Thiết giáp số 7 và Ấn Độ số 5 đã tiến sâu vào phía đông chiếc "vạc" mà không thấy một bóng dáng nào của địch. Trong lúc đó, các mũi tấn công của Quân đoàn XIII bị bẻ gãy hoàn toàn trên mạn bắc. Mặc dù kế hoạch của Ritchie đòi hỏi phải thủ tiêu trận địa pháo chống tăng Đức bằng một cuộc pháo kích lớn, phía Đồng Minh đã xác định sai vị trí trận địa này, và đại bác Đồng Minh bắn trúng một khu vực cách đó rất xa về hướng đông.[39][50] Khi Lữ đoàn Thiết giáp số 22 xông lên xung trận, họ bị hỏa lực tập trung của pháo phòng không địch chặn đứng với thương vong lớn.[51] Từ hướng bắc, Lữ đoàn Tăng Lục quân số 32 vào nhập trận lúc rạng sáng nhưng cũng chùn lại trước hỏa lực chống tăng dày đặng của Đức, và bị tổn hại mất 50 trong 70 xe tăng.[52]

Đầu giờ chiều ngày 5 tháng 6, Rommel quyết định chia quân làm 2 đạo, 1 đạo gồm các Sư đoàn Thiết giáp số 21 và Ariete đông tiến đánh Bir el Hatmat, đạo kia gồm một bộ phận của Sư Thiết giáp số 15 đánh lên mạn bắc đặng uy hiếp cụm cứ điểm Knightsbridge.[53] Mũi tấn công của các Sư đoàn Thiết giáp số 21 và Ariete đã đánh chiếm sở chỉ huy tiền phương của 2 sư đoàn Anh, cũng như sở chỉ huy của các Lữ đoàn Bộ binh Ấn Độ số 9, 10 cùng nhiều đơn vị nhỏ hơn khác, làm gián đoạn hệ thống chỉ huy và kiểm soát của Anh.[53] Đồng thời, Sư đoàn Thiết giáp số 15 tiêu diệt 60 trong tổng số 156 xe tăng của Lữ đoàn Thiết giáp số 22 và buộc lữ đoàn này phải lùi về hậu cứ. Không có sự yểm trợ của xe tăng, các đơn vị Đồng Minh lọt sâu vào chiếc vạc trong buổi sáng - gồm tiểu đoàn bộ binh Ấn Độ, 1 tiểu đoàn trinh sát và 3 tiểu đoàn pháo binh - đã bị đánh cho nhừ tử.[54]

Sau khi Chiến dịch Aberdeen bị phá sản, Rommel tiếp tục kết hợp tấn công với phòng ngự, vừa củng cố binh lực trong "vạc" mà vừa đánh tiêu hao quân thiết giáp Anh. Ông mở hàng loạt trận thăm dò và thử sức địch ở các chốt điểm đối diện với mình, đồng thời tổ chức nhiều đợt tấn công vào Bir Hakeim trong các ngày 6 – 8 tháng 9. Các cuộc công kích này đều bị quân trú phòng Pháp đẩy lui. Giữa lúc đó, Lữ đoàn Mô tô số 7 và Lữ đoàn Bộ binh Ấn Độ số 29 tiếp tục quấy phá đường tiếp vận của Đức-Ý.[55]

"Ngày thứ bảy đen tối" của quân thiết giáp Anh

Rommel ở phía tây Tobruk, ngày 16 tháng 6 năm 1942

Ngày 11 tháng 6, Rommel tung Sư đoàn Thiết giáp số 15 và Sư đoàn Khinh chiến số 90 mở cuộc hành quân về hướng El Adem.[27] Mặc dù Lữ Bộ binh Ấn Độ số 29 bẻ gãy một cuộc tấn công vào El Adem trong ngày 12 tháng 6, các Lữ Thiết giáp số 2 và 4 bên trái họ đã bị Sư đoàn Thiết giáp số 15 đánh bật trên một diện rộng 5 km, và phải bỏ rơi các xe tăng bị hư của mình ngoài trận địa. Để hợp lực để cùng 2 sư đoàn bạn tiêu diệt xe tăng địch, Sư Thiết giáp số 21 (Đức) tiến sang hướng tây, đánh tạt hông Lữ Thiết giáp số 4 và nghênh chiến với Lữ Thiết giáp số 22 (Anh) gần "hộp" Knightsbridge (trấn thủ bởi Lữ đoàn Cận vệ số 201) vào hôm 13 tháng 6. Việc hợp đồng chặt chẽ giữa pháo tăng với pháo phòng không đã giúp cho Quân đoàn Phi châu giành được ưu thế chiến thuật lớn trong những trận đánh ngày 13.[56][57] Không những vậy, trái với sự xử trí lúng túng của các chỉ huy Đồng Minh, Rommel luôn đưa ra quyết định nhanh chóng dựa trên thông tin tình báo thu được do đánh chặn radio địch.[39][58] Lực lượng thiết giáp Anh thảm bại, bị mất 70 trong tổng số 300 xe tăng của mình, và Binh đoàn Phi châu đe doạ chia cắt các đơn vị thuộc Quân đoàn XIII (Anh) trên tuyến Gazala.[59] Cuối ngày hôm ấy, quân khối Trục vây khốn "hộp" Knightsbridge, buộc Lữ Cận vệ số 201 phải trốn chạy về vòng ngoài Tobruck trong màn đêm.[53] Những thất bại này là lý do khiến ngày 13 tháng 6 được coi là "Thứ bảy đen tối" của Tập đoàn quân số 8.[60]

Tập đoàn quân số 8 rút khỏi tuyến Gazala

Ngày 14 tháng 6, Auchinleck phát lệnh cho Ritchie triệt binh khỏi phòng tuyến Gazala. "Hộp" El Adem, cùng với hai hộp lân cận, đã đứng vững trước các đợt tấn công của địch và quân chủ lực Sư đoàn Nam Phi số 1 đã rút lui an toàn dọc theo con đường ven biển.[61] Quy mô của tuyến đường này không cho phép nó chứa 2 sư đoàn, nhưng 2 lữ đoàn của Sư đoàn số 50 (Northumbria) lại không thể chạy về phía đông do hướng đó có xe tăng Đức-Ý. Bởi vậy, họ bèn tấn công theo hướng tây nam, chọc thủng chiến tuyến của các sư đoàn Brescia và Pavia thuộc Quân đoàn X (Ý) và chạy thẳng xuống sa mạc rồi quẹo sang hướng đông để rút lui.[62] Trong khi đó, chính phủ Luân Đôn không cho Auchinleck thu quân về các vị trí dễ phòng thủ hơn quanh biên giới Ai Cập-Libya. Ngày 14 tháng 6, Auchinleck xuống lệnh cho Ritchie cầm cự trên một chiến tuyến trải dài theo hướng nam-đông từ Acroma (phía tây Tobruk) qua El Adem tới Bir El Gubi.[63] Đến đêm ngày 15 tháng 6, quân khối Trục đã tràn ngập được Cứ điểm 650. Sang hôm sau, quân Anh phải rút khỏi Cứ điểm 187 do cạn kiệt lương thảo và đạn dược. Trong suốt cả ngày hôm ấy, Quân đoàn Phi châu cũng đánh mạnh vào các chốt phòng thủ của địch tại El Adem và Sidi Rezegh. Ngày 17 tháng 6, cả hai cứ điểm này đều thất thủ và quân Đồng Minh mất sạch cơ hội ngăn chặn địch hợp vây Tobruk. Ritchie lệnh cho Tập đoàn quân số 8 chạy vào tây bắc Ai Cập đến tận Mersa Matruh - cách biên cương 160 km về phía đông, để lại Tobruck tự lực cầm cự và uy hiếp đường tiếp tế của địch, gần giống như hồi năm 1941.[64]

Tobruk thất thủ

Tù binh Anh rời khỏi Tobruk

Thủ trưởng Quân đoàn XIII Gott bổ nhiệm Thiếu tướng Tư lệnh Sư đoàn Bắc Phi số 2 Klopper làm chỉ huy quân đồn trú Tobruk. Bên cạnh 2 lữ đoàn lính Nam Phi, trong tay Klopper nắm giữ Lữ đoàn Cận vệ (Mô tô) số 201, Lữ đoàn Bộ binh Ấn Độ số 1, Lữ đoàn Tăng Lục quân số 32 và Lữ đoàn Phòng không số 4.[64] Từng bị quân Trục bao vây năm 1941, Tobruk đã trụ vững suốt 9 tháng và được giải vây trong Chiến dịch Crusader vào tháng 11 năm ấy. Giờ đây, khi thế trận đang nghiêng hẳn về binh đoàn của Rommel, các chỉ huy Đồng Minh tiên liệu rằng đồn binh Tobruck có thể cầm cự 2 tháng mà chỉ cần dựa vào tiếp tế trong pháo đài.[65][66] Tuy nhiên, Auchinleck coi việc cố thủ Tobruk là không quá cần thiết và ông từng nói với Neil Ritchie rằng ông không có dự định giữ pháo đài bằng mọi giá.[67]

Lúc 5h20 ngày 20 tháng 6, trận Tobruk lần thứ hai mở màn bằng cuộc pháo kích cấp tập của Quân đoàn Phi châu vào đội hình quân Anh. Sau khi pháo dứt, không quân Đức-Ý ào ạt đánh phá trận địa, chặt nát các hàng dây kẽm ngai và tiêu hủy các bãi mìn của quân đội Đồng Minh. Đến 7h00, bộ binh phe Trục xông lên xung phong vào trận địa. Được sự trợ giúp của các đơn vị lính Ý, Rommel sử dụng 90 xe tăng thuộc 2 sư đoàn Thiết giáp số 15 và 21 khoét một lỗ thủng vào phòng tuyến đối phương. Trong khi Sư Thiết giáp số 15 tiến ra cảng biển Địa Trung Hải, Sư Thiết giáp số 21 tràn lên hướng tây bắc và tấn công Sở chỉ huy quân Đồng Minh, chẻ thành phố Tobruck ra làm đôi. Lực lượng khối Trục đã kiểm soát được 2/3 thành phố (trong đó có hải cảng) vào thời điểm kết thúc ngày đầu tiên của trận đánh. 9h40 sáng hôm sau, Klopper trình diện Rommel và giao nộp Tobruck cho ông. Với thắng lợi này, phía Trục đã thu gom được 33.000 tù binh cùng 30 xe tăng, 2000 xe quân sự, 5000 tấn lương thực và 2000 tấn lương thảo cần thiết.[68]